Những bài viết/dịch của chuyên gia Tường Anh

Ngủ Ngoan

Gửi bàigửi bởi admin » T.Năm Tháng 3 05, 2009 11:16 pm

Ngủ Ngoan Con Hãy Ngủ Ngoan
Gió Lay Mặc Gió, Ngủ Ngoan Đi Nào

Tác giả: Marci Wheeler, http://www.iidc.indiana.edu, Feb 03, 2009
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


Lời người dịch: 1) tựa đề bài viết của bà Marci Wheeler là một câu văn vần của Hoa Kỳ, tôi xin phép lấy hai câu lục bát ru con ra thay. 2) Cụm từ “typically developing children” hay “normal children” không phù hợp với chủ trương chung của Cùng Nhau Vuợt Khó. Chúng tôi xin tạm gọi thay nhóm trẻ “bình thường” là “trẻ phát triển đúng chuẩn.”

Phần lớn phụ huynh đã có kinh nghiệm khi con khó ngủ, dậy đêm, hoặc chỉ ngủ một vài giờ mỗi đêm. Loại khó ngủ tạm thời là một giai đoạn phát triển. Chứng khó ngủ kéo dài và thường xuyên có thể gây tác hại xấu nơi trẻ, nơi phụ huynh và mọi người sống chung. Trẻ trong phổ TK có vẻ phải chịu đựng chứng mất ngủ thường xuyên hơn và nặng nề hơn trẻ phát triển đúng chuẩn. Những khó khăn về giấc ngủ có thể mau chóng trở thành thử thách cho cha mẹ.

Có nhiều yếu tố phải giải quyết khi thiết lập kế hoạch giúp trẻ ngủ tốt. Trước tiên, những lý do y khoa gây mất ngủ phải được khám chuẩn. Cũng nên xét đến thức ăn, hoặc/và dị ứng môi trường, rối loạn tiêu hóa, và động kinh. Tất cả mọi khó khăn này đều thường thấy nơi trẻ trong phổ TK. Ngoài ra, chứng khó ngủ cũng có thể là phản ứng phụ của những loại thuốc men mà một cá nhân sử dụng và vì thế yếu tố này cũng nên được xét đến.

Chứng khó ngủ

Rối loạn giấc ngủ nơi đứa con trong phổ TK của bạn không phải là loại khó ngủ bình thường. Chứng sleep apnea là rối loạn có thể ảnh hưởng bất kỳ ai ở bất kỳ độ tuổi nào. Đó là loại rối loạn khiến chúng ta ngừng thở vì khí quản bị nghẹt khi ngủ. Nguyên nhân thường nhất là phần thịt dư ở cổ bị sưng. Bệnh hô hấp phần thượng hay dị ứng cũng có thể gây sleep apnea. Ngoài việc ngưng thở, biểu hiện của sleep apnea nơi trẻ em còn có: ngáy, thở bằng miệng, ngủ không yên, chảy mồ hôi, mộng du, và/hoặc ho hay sặc khi ngủ. Những rối loạn giấc ngủ khác nơi trẻ cần được chẩn bệnh là ác mộng hay tình trạng thức mà lơ mơ. Cả hai tình trạng này đều được coi là parasomnias. Đây là rối loạn khiến người mang bệnh có những hành vi bất thường khi còn đang ngủ. Trẻ em với khó khăn điều hòa ngũ quan sẽ gặp nhiều khó khăn để chìm vào giấc ngủ, và còn có thể mộng du.

Sau khi những nguyên nhân khả dĩ về y khoa đã được giải quyết, những yếu tố còn lại gây khó ngủ nên được xem xét và giải quyết. Những yếu tố ấy có thể là: môi trường, giờ giấc ngủ và việc sửng dụng phương pháp huấn luyện ngủ. Mỗi yếu tố này được thảo luận thêm sau đây:

Môi trường

Sau khi đã thẩm định môi trường mà con bạn ngủ một cách chi tiết, có thể cần có những thay đổi và điều chỉnh để giúp bé ngủ một cách thư thái.

Hãy xem bé có quá nóng hay quá lạnh không. Hãy xem lại nhiệt độ trong phòng, ra giường, áo gối để xem kết hợp ra sao thì tốt cho bé. Hãy nhớ là mức nhậy cảm của bé với nhiệt độ rất khác với mức nhậy cảm của bạn. Bạn thử nhớ xem trong ngày bé thích chơi ở những nơi có nhiệt độ thế nào.

Hãy xem đến những nhậy cảm về lãnh vực sờ chạm. Có những bề mặt cảm xúc nhất định khiến bé thư giãn hoặc cảnh tỉnh. Hãy xem bề mặt cảm xúc của ra giường hay áo gối ra sao. Con bạn có thể còn muốn hai bàn chân được thò ra hoặc dấu vào trong quần áo ngủ, trong với, hay trong mền. Bộ quần áo chật bao nhiêu hay rộng bao nhiêu, hay ngay cả chúng có dây thung hay không, cũng là một vấn nạn với một số trẻ. Ngoài ra, chiếc mền của bé có thể sẽ cần có độ nặng để tạo sức ép.

Hãy để ý đến âm thanh và xem chúng ảnh hưởng con bạn thế nào. Buổi tối, khi cố gắng thư giãn và ngủ, những âm thanh bé nghe thấy có thể quá lớn và bé thì không thể nào lọc chúng qua một bên. Những âm thanh này, như nước nhỏ giọt hay con thú cào cào có thể không làm phiền gì bạn hay những thành viên khác trong nhà nhưng rất phiền toái đối với đứa con trong phổ TK của bạn. Bạn có thể lưu ý đến âm thanh trong nhà xem chúng ảnh hưởng bé thế nào không? Đôi khi, chỉ cái quạt, máy lọc không khí, TV hay nhạc êm dịu trong phòng bé có thể kích hoạt những âm thanh khác, và cung cấp một loại âm thanh thống nhất có thể khiến bé thư giãn, thoái mái.

Cũng nên chú ý đến những kích thích thị giác có thể gây khó khăn cho giờ ngủ của bé. Bé có sợ bóng tối không? Một số trẻ trong phổ TK có thể thích những chỗ tối vào ban ngày, nhưng điều đó hoàn toàn khác với việc mong đợi bé ngủ trong phòng thật lớn nơi mà chiếc giường chìm trong bóng tối. Đèn đường, ánh trăng, đèn xe chiếu vào phòng ở những khoảnh khắc nhấp nháy có thể ảnh hưởng giấc ngủ của bé. Việc cho bé căn phòng có lượng ánh sáng hay bóng tối thống nhất là điều quan trọng, tùy vào nhu cầu của bé.

Thói lệ khi đi ngủ và phổ TK

Thói lệ trước khi đi ngủ rất quan trọng đối với đa số trẻ trong việc thiết lập một mẫu mực ngủ nghỉ tích cực, nhưng lại vô cùng thiết yếu đối với trẻ trong phổ TK.

Con bạn sẽ được lợi nếu giờ đi ngủ thống nhất. Hãy chọn giờ có lý cho con và cũng là giờ bạn có thể luôn bám theo để giúp con.

Trẻ trong phổ TK cần biết điều gì sẽ xẩy ra kế tiếp. Việc thiết lập những thói lệ cho ngủ nghỉ có thể giúp bé những dự đoán, và một khuôn mẫu thoải mái, quen thuộc. Thời khóa biểu cho việc đi ngủ có thể giúp bé hiểu thêm và thấy có quy luật hơn. Thời khóa biểu này có thể là những nhắc nhở và mang lại sự thống nhất cho cả nhà.

Thói lệ đi ngủ tốt sẽ giúp bé thư giãn, bình tâm và sẵn sàng ngủ. Thí dụ, nếu việc tắm rửa là điều bé kinh sợ và bị kích thích quá, dù bạn có muốn bé tắm rồi mới ngủ, có lẽ tốt nhất là bạn tắm bé vào một thời điểm khác trong ngày. Tương tự, có thể có những hoạt động điều hòa ngũ quan mà bạn đã thấy có thể giúp bé thư giãn trong ngày, bạn có thể lập lại chúng như một trong những thói quen đi ngủ.

Thói quen đi ngủ nên đúng giờ trong mọi ngày, và nên kèm những hoạt động mang tính vui thú, nhẹ nhàng cũng như đặc biệt và cá nhân hóa theo nhu cầu cùng sở thích của bé. Một thói quen đi ngủ trên thực tế nên có 4 đến 6 bước với khoảng thời gian khả dĩ là những gì nên được thực hiện mỗi tối.

Một số hoạt động cũng được coi là một phần của thói quen đi ngủ gồm có coi cùng một cuốn sách hay truyện mỗi tối, chào good night với cùng những đồ vật yêu thích, đi tiêu tiểu, tắm, mặc đồ ngủ, đánh răng, uống cốc nước, hát bài hát quen thuộc hay cầu nguyện, nghe nhạc êm dịu mà bé thích, ôm và hôn những thành viên trong nhà, hoặc tham gia hoạt động điều hòa ngũ quan êm nhẹ nào đó.

Trong những ngày bạn vắng nhà hoặc phải về trễ, việc bám theo những thói quen này là rất quan trọng. Bạn có thể cắt ngắn mỗi bước và giảm mức bực bội do những thay đổi này. Nếu bé vắng nhà một hai hôm, bạn có thể thấy những khó khăn cũ nổi lên. Ngay cả trong một môi trường mới tạm thời, những thói quen này sẽ hữu ích. Khi trở về nhà, thói quen đi ngủ sẽ tiếp tục có hiệu quả, dù sự kích động vì thay đổi có thể mất một hai đêm mới phai mờ tùy vào con bạn và cũng tùy thời gian bạn đi xa.

Huấn luyện thói quen đi ngủ và TK

Khi giải quyết những vấn nạn liên quan đến y khoa, các yếu tố môi trường và thói quen đi ngủ, đó cũng là lúc bạn chạm đến mảnh cứng cỏi nhất trong nỗ lực thiết lập một khuôn mẫu ngủ nghỉ tích cực: dậy bé ngủ suốt đêm. Có nhiều cách huấn luyện thói quen đi ngủ mà bạn có lẽ đã đọc qua hay nghe qua. Căn bản là sau khi đã thực hiện những thói quen đi ngủ và bé đã vào giường hay vào nôi, bạn hãy rời phòng ngay mà không trao đổi dài dòng hay nỗ lực sờ chạm gì bé thêm bằng bất kỳ hình thức nào.

Nếu bé tức giận và rõ rang là không ngủ, hãy chờ vài phút rồi hãy trở lại phòng xem bé ra sao. Việc trở lại xem bé gồm có việc trở lại phòng và sờ chạm, xoa vuốt bé thật mau (không hơn 1 phút, và nếu được thì ít hơn thế), hoặc có thể high five [hai người dơ tay đập vào tay nhau], thumbs up [dơ ngón cái theo kiểu “con là số một”], ôm đối với những bé lớn hơn đã có thể đáp trả những cử chỉ này. Nhẹ nhàng nhưng cương quyết, hãy nói: “Không sao, đã đến giờ ngủ, con không sao hết” hay một câu nào đó tương tự rồi rời phòng cho đến khi bạn trở lại lần nữa hay khi bé đã ngủ say.

Việc sử dụng kỹ thuật này một cách đều đặn thường là khó cho cha mẹ hơn cho trẻ. Nó có thể mất vài giờ trong những đêm đầu tiên. Thật quan trọng để biết rằng hành vi ứng xử của bé rất có thể sẽ tồi tệ đi trong vài ngày trước khi trở nên tiến bộ hơn. Đây là lúc bé thử nghiệm những thay đổi và cố gắng đưa thói quen cũ trở lại. Nhiều bé ở tuổi lớn hơn lại không thường mệt mỏi ở giờ mọi người đi ngủ, thói quen nằm trong giường hay trong phòng nhưng im lặng có lẽ thích hợp. Các phương pháp huấn luyện thói quen đi ngủ vẫn có thể được áp dụng trong tình huống này. Ngoài ra, cổng hay những miếng chắn có thể cần được cài ở cửa phòng để nhắc bé rằng đã đến lúc đi ngủ và sự mong đợi dành cho bé chính là việc bé phải ở trong phòng của mình.

Nếu con bạn đã lớn và chưa bao giờ ngủ qua đêm, chính bạn cũng có thể đang thiếu ngủ trầm trọng. Hãy yêu cầu bác sĩ, chuyên gia tâm lý, cán sự xã hội hay người lo giấy tờ của gia đình xem bạn đã nộp đơn xin bảo hiểm sức khỏe miễn phí chưa. Có lẽ không dễ tìm ra chuyên viên hiểu biết nhưng bạn có thể các phụ huynh khác xem họ có biết ai đã giúp họ xưa kia không. nếu bé có vẻ tệ đi trong thói quen đi ngủ, bạn có lẽ nên tham khảo với những chuyên gia thật hiểu biết. Cũng thế, bạn cần thực hiện những lần khám định y khoa và đi tiếp từ đấy. Đôi khi nếu những lý do y khoa đã bị loại ra, việc uống thuốc ngủ ngắn hạn có bác sĩ cho toa theo dõi có thể giúp thay đổi thói quen ngủ tệ hại kia, trong khi bạn tiếp tục giúp bé nỗ lực xây dựng thói quen đi ngủ tích cực.

Melatonin, giấc ngủ và phổ TK

Nhiều bác sĩ trong chuyên ngành TK đã thực hiện những nghiên cứu tiên phong về việc dùng phụ chất melatonin ngắn hạn, loại có thể mua không cần toa. Melatonin có thể hỗ trợ việc thiết lập giấc ngủ bình thường cho một số trẻ bằng cách giúp các em đi vào giấc ngủ mau hơn. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại lưu ý rằng đôi lúc melatonin thôi hiệu lực và thường không giúp được việc trẻ thức giấc ban đêm. Thêm vào đó, ảnh hưởng về lâu về dài của melatonin chưa được tìm hiểu kỹ. Một số phụ huynh đã tìm ra rằng những loại sinh tố phụ trợ có thể giúp con ngủ được.

Không lạ gì khi trẻ trong phổ TK khó đi vào giấc ngủ, chỉ ngủ vài tiếng mỗi lần, và/hoặc ngủ mà không đi qua đi lại cả đêm. Những thói quen xấu này của giấc ngủ dễ hình thành và rất khó thay đổi. Một vấn nạn không được thảo luận trong bài viết này là thói quen ngủ của con bạn. Thói quen này xuất hiện khi lối ngủ nghỉ tiêu cực của bé ảnh hưởng không chỉ bé mà cả cha mẹ và những người còn lại trong gia đình.

Nếu bé có thói quen ngủ với cha hoặc mẹ hay/và ngủ trong giường cha mẹ, những bước tương tự như đã mô tả ở trên nên được thực hiện với hỗ trợ phụ trội trong việc xem xét môi trường và thói quen đi ngủ. Thí dụ, cái gối hay vật nào khác từ phòng cha mẹ có thể làm cho phòng của bé thành dễ chịu hơn khi cha mẹ đưa bé ra ngủ riêng. Việc làm giảm nhậy cảm với phòng ngủ mới hay giường mới có thể nên đưa vào thói quen đi ngủ. Việc này nên được thực hiện mỗi ngày trong một chuỗi ngày hay vài tuần trước khi được ghép vào một bước trong thói quen đi ngủ.

Vì đã quá đủ áp lực, lời khuyên tốt nhất là xin tránh tạo những thói quen đi ngủ mà bạn có thể hủy bỏ sau này. Tốt nhất là không hủy gì cả.

Việc khám định những vấn nạn y khoa, môi trường để tạo vào thường xuyên bám theo một thói quen đi ngủ có thể làm tăng chất lượng đời sống của cả nhà. Nỗ lực này cần thời gian để có thể thiết lập thói quen đi ngủ tích cực, đặc biệt nếu bạn phải thay đổi một khó khăn đã kéo dài quá lâu. Các gia đình thường phải lấy vấn nạn ngủ nghỉ này làm ưu tiên số một cho đến khi đã thiết lập được thói quen đi ngủ tích cực. Đây là ưu tiên xứng đáng để nỗ lực thực hiện.


References

Dodge, N.N. & Wilson, G.A. (2001). Melatonin Reduces Sleep latency in children with developmental disabilities. Journal of Child Neurology, 16, 581-584.
Durand, V.M. (1998). Sleep better! A guide to improving sleep for children with special needs. Baltimore, MD: Paul H. Brookes Publishing.
Hayashi, E. (2000). Effect of melatonin on sleep-wake rhythm: The sleep diary of an autistic male. Psychiatry and Clinical Neuroscience, 54 (3), 383-4.
Mindell, J.A. (1997). Sleeping through the night: How infants, toddlers, and their parents can get a good night’s sleep. New York, NY: Harper Collins Publishers.


Tác giả: Marci Wheeler, http://www.iidc.indiana.edu, Feb 03, 2009
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


ConCủaMẹ.com
admin
Site Admin
 
Bài viết: 1410
Ngày tham gia: T.Bảy Tháng 12 13, 2008 11:22 am

SPD Ở Tuổi Trưởng Thành

Gửi bàigửi bởi admin » T.Năm Tháng 3 05, 2009 11:18 pm

SPD Ở Tuổi Trưởng Thành

Nguồn: http://www.spdfoundation.com, Feb 14, 2009
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


Khi có hai rối loạn đồng xuất hiện ở một cá nhân, hiện tượng này được gọi là “comorbidity.” Hội SPD đã bảo trợ cũng như tiến hành nhiều nghiên cứu về sự đồng xuất hiện của SPD và một số rối loạn thường thấy nơi trẻ em như Thiếu Chú Ý Hiếu Động, rối loạn trong phổ tự kỷ trong đó có Asperger, Fragile X Syndrome, Prader-Willi Syndrome, và những bệnh khác.

SPD và Thiếu Chú Ý Hiếu Động

Các nhà khoa học và phụ huynh rất quan tâm tìm hiểu liên hệ giữa SPD và Thiếu Chú Ý Hiếu Động (ADHD), một tình trạng thường đựơc trị bằng dược chất. Dù căn bản thần kinh của hai loại rối loạn này khác nhau, trẻ em nào thuộc dạng tìm kiếm cảm giác cũng thường được chẩn đoán và chữa trị ADHD vì hành vi của các em giống như những em có ADD (Thiếu Chú Ý). Những nghiên cứu của Hội SPD cho thấy SPD và ADHD là những rối loạn đặc biệt, mỗi loại có biểu hiện khác nhau. Điều này có nghĩa là SPD không đơn giản chỉ là một dạng ADHD, và ADHD không đơn thuần là một loại SPD. Tuy nhiên, theo ước đoán có từ 40 đến 60% trẻ em mang rối loạn này thì cũng mang rối loạn kia.

Biện pháp can thiệp thích hợp cho bất kỳ rối loạn nào cũng cần dựa trên chẩn đoán chính xác. Việc được chẩn đoán bởi một chuyên gia điều trị tâm vận động đã được huấn luyện về điều hòa ngũ quan sẽ khiến chẩn đoán có thể phân biệt những khó khăn về thiếu chú ý với những khó khăn về cảm giác. Sự phân biệt này gia tăng khả năng con bạn có thể nhận được phương pháp chữa trị thích hợp với tình trạng thần kinh của bé.

Khi có nhiều them nghiên cứu về liên đới giữa SPD và ADHD, Hội SPD hy vọng sẽ đặt nền tảng khoa học cho những phương cách thẩm định chính xác cả hai loại rối loạn này, làm đường cho các biện pháp can thiệp tốt hơn dành cho trẻ có một trong hai rối loạn.

SPD và Tự Kỷ

Trẻ em mang rối loạn điều hòa ngũ quan ở dạng phản ứng quá ít với cảm giác thường cần nhiều kích thích để trở nên tỉnh táo và sinh động, đây là hành vi thường thấy nơi các trẻ trong phổ tự kỷ. Trong khi đó, những em bé trong phổ tự kỷ có nhiều biểu hiện tương đồng với các em SPD ở dạng phản ứng quá mức với cảm giác. Vì Tự Kỷ và SPD đều có loại phản ứng quá mức hay quá ít với kích thích từ ngũ quan, hai loại rối loạn này hay bị nhầm với nhau.

Liên hệ giữa SPD và Tự Kỷ là lãnh vực được các nhà nghiên cứu và phụ huynh quan tâm nhiều. Nghiên cứu của Hội SPD cho thấy hơn ¾ số trẻ trong phổ tự kỷ có những biểu hiện nghiêm trọng của SPD.

Tuy nhiên, tình trạng ngược lại không hẳn đúng. Đa số trẻ có SPD không có rối loạn thuộc phổ tự kỷ! Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hai tình trạng này là hai rối loạn riêng biệt, cũng như SPD và Tự Kỷ là hai rối loạn không trùng nhau.

Nguồn: http://www.spdfoundation.com, Feb 14, 2009
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


ConCủaMẹ.com
admin
Site Admin
 
Bài viết: 1410
Ngày tham gia: T.Bảy Tháng 12 13, 2008 11:22 am

SPD Ở Người Trưởng Thành

Gửi bàigửi bởi admin » T.Năm Tháng 3 05, 2009 11:19 pm

SPD Ở Người Trưởng Thành

Nguồn: http://www.spdfoundation.com, Feb 24, 2009
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


Thanh niên thiếu nữ và người lớn đã từng được chữa trị khi còn nhỏ vẫn có thể thấy mình phải đấu tranh khi họ đạt đến mức phát triển mới hoặc có những kinh nghiệm đời sống mới. Thí dụ, một thiếu niên đã biết đáp ứng với các thử thách của trường cấp ba, và sẽ rời nhà đi đại học, có thể thấy rằng việc sống trong tình thế đầy hỗn độn của ký túc xá sẽ làm nẩy sinh những biểu hiện bệnh mới. Ở những thời điểm như thế, việc chữa trị “phụ trội” hay cố vấn hầu tăng khả năng hiểu mình và cung cấp những kỹ năng đáp ứng với tình thế mới là điều vô cùng hữu dụng.

Trẻ em nhậy cảm nếu không được chữa trị từ tuổi nhỏ thường trở thành những người trưởng thành có cuộc sống tiếp tục bị ảnh hưởng vì thiếu khả năng diễn giải chính xác và thích hợp những thông tin từ ngũ quan. Những “người trưởng thành nhậy cảm” này có thể gặp khó khăn thực hiện những thói quen và sinh hoạt trong công việc, trong liên hệ thân tình, và trong hoạt động giải trí. Vì những người trưởng thành có SPD thường phải nỗ lực cả đời, họ cũng có thể bị trầm cảm, thất bại, cô lập, hoặc những ảnh hưởng phụ về tình cảm xã hội khác.

Mục đích chữa trị dành cho người trưởng thành có SPD là giúp họ sống tràn đầy và hạnh phúc. Phần lớn người trưởng thành có SPD phải nỗ lực vì họ bị hiểu lầm suốt cả đời. Thường ra, họ không hiểu chính mình. Tại sao tôi lại không thích ở bên ai, hay đi mua sắm, hoặc đi xem ciné? Hay Tại sao tôi lại quá vụng về? Hay Tại sao việc tôi gắn bó với điều gì đó lại trở nên quá khó khăn với tôi như thế?

Một khi đã nhận chữa trị về những khó khăn ngũ quan, sự hiểu biết chính mình này tăng lên. Được chữa trị trực tiếp, sẽ có những thay đổi trong cách tiếp nhận cảm giác. Những phương thức sẽ được chỉ dẫn trong chữa trị hầu tránh những liên hệ hay tình thế có thể tạo thất bại và dẫn đến trầm cảm hoặc âu lo. Các phương thức này dành cho khung cảnh nhà riêng cũng đựơc dậy.

Nguồn: http://www.spdfoundation.com, Feb 24, 2009
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


ConCủaMẹ.com
admin
Site Admin
 
Bài viết: 1410
Ngày tham gia: T.Bảy Tháng 12 13, 2008 11:22 am

SPD và Tài Năng

Gửi bàigửi bởi admin » T.Năm Tháng 3 05, 2009 11:20 pm

SPD và Tài Năng

Nguồn: http://www.sfpfoundation.com
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


Nghiên cứu về SPD và những năng khiếu đặc biệt đã từng đựơc tiến hành với kỹ thuật yếu kém và kết quả trái ngược nhau về chủ đề liệu khuyết tật về điều hòa giác quan có nổi trội nhiều nơi trẻ em có tài hơn nơi trẻ bình thường không. Tuy nhiên, năm 2007, nghiên cứu mới bắt đầu cho thấy những biểu hiện của SPD thường xảy ra nhiều trong nhóm trẻ em được định là có tài năng đặc biệt hơn là trong nhóm trẻ bình thường, và đây là lãnh vực cần được tìm hiểu nhiều hơn.

Bà Paula Jarrard, Thạc Sĩ Trị Liệu Tâm Vận Động, cũng là sinh viên tiến sĩ tại Đại Học Rocky Mountain University of Health Professions, đã làm cuộc so lại các nghiên cứu về câu hỏi này và đưa ra những kết quả sau:

Một nghiên cứu tiên phong bởi Hội SPD tìm thấy rằng có 35% số trẻ em (trong tổng cộng 500 em) đã được định là có tài năng đặc biệt mang biểu hiện SPD. Đây là con số tăng 5% so với số trẻ bình thường có SPD mà những nghiên cứu trước kia tìm ra.

SPD có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển tâm trí, tình cảm, xã hội và vận động nơi trẻ có khả năng đặc biệt.

Khi không được nhận ra, việc trẻ có khả năng đặc biệt hay có khuyết tật học tập (kể cả nhưng không giới hạn chỉ SPD) có thể mang hậu quả lâu dài và thảm hại trong đó có những hậu quả về xã hội và tình cảm kéo dài vào tuổi trưởng thành.

Loại rối loạn mang tên Sensory Modulation Disorder (tìm kiếm cảm giác, phản ứng quá nhậy hay không hề phản ứng với cảm giác) là loại thông thường nhất nơi trẻ có tài năng đặc biệt, nhưng nhiều trẻ có tài năng đặc biệt cũng phải chịu đựng dyspraxia, một thể loại trong Sensory-Based Motor Disorder.

Càng nhiều tài năng, càng có nhiều khả năng các em phản ứng quá nhậy với đau đớn, âm thanh, sờ chạm, và mùi vị.


Nguồn: http://www.sfpfoundation.com
Dịch: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ, ConCuaMe.com


ConCủaMẹ.com
admin
Site Admin
 
Bài viết: 1410
Ngày tham gia: T.Bảy Tháng 12 13, 2008 11:22 am

Suy Luận: Những Kỹ Năng Cần Thiết

Gửi bàigửi bởi admin » T.Tư Tháng 4 08, 2009 6:52 pm

Suy Luận: Những Kỹ Năng Cần Thiết

Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Trị Liệu Ngôn Ngữ
http://www.concuame.com


Lược qua những chi tiết y khoa của cấu tạo não, những khiếm khuyết của hệ thần kinh trong quá trình suy luận, bài viết này lấy ngôn ngữ làm nền của suy luận, nhìn qua lăng kính chuyên môn của khoa Ngôn Ngữ Trị Liệu.

Đại Cương

Suy luận là khả năng mỗi cá nhân phải có cho những sinh hoạt hàng ngày: từ uống ly nước đến ăn bữa tối, từ việc nổ máy xe đi làm đến quá trình làm việc suốt ngày tại hãng xưởng, từ quyết định mua cây bút đến quyết định mua nhà, sắm xe. Quá trình dự đoán, tính toán, sắp xếp mà tôi gọi chung là khả năng suy luận xảy ra với chúng ta mỗi giây phút trong ngày sống.

Thế nhưng không chỉ có người lớn với những bươn chải của cơm áo gạo tiền mới cần suy luận. Trẻ em có thế giới của chúng, nơi mà các em cũng phải dự đoán và tính toán. Thí dụ: bé Mi 2 tuổi lăn xuống nền nhà la khóc vì biết má đang nhìn, bé Quí 4 tuổi nín khóc vì biết ba không thèm để ý, bé Trúc 4 tuổi muốn chiếc kẹp mầu hồng thay vì mầu xanh, bé Khoa 6 tuổi đòi bố đưa đi học, em Nam 10 tuổi quyết định chọn câu trả lời “c” trong bốn chọn lựa abcd của bài trắc nghiệm…

Dĩ nhiên có những chọn lựa của trẻ em có vẻ như đến từ bản năng và thiếu suy xét, như trong trường hợp một bé có tự kỷ bùng nổ vì thay đổi của môi trường, hay một bé Asperger cắn bạn khi thua cuộc chơi. Khả năng suy luận trong bài viết này nói đến kỹ năng mà trẻ em cần có để thành công khi quyết định, ứng xử, và đáp ứng với môi trường tại gia đình, trường lớp, và ngoài xã hội. Là nhóm trẻ cần hỗ trợ của khoa giáo dục đặc biệt, hay nhóm trẻ ở giáo dục phổ thông, kỹ năng này vẫn cần được huấn luyện và tăng triển để các em thành công hơn.

Các Kỹ Năng Thuộc Khả Năng Suy Luận

1. Góp Nhóm
Góp nhóm là kỹ năng căn bản nhất trong khả năng suy luận. Góp nhóm là khi bé biết một sự vật thuộc nhóm nào dựa trên hình dạng, màu sắc, kích cỡ, công dụng… Chuối, khế, táo, mận thuộc nhóm trái cây. Bốn loại trái này còn được chia theo màu sắc: chuối và khế màu xanh, táo và mận màu đỏ. Muỗng, đũa, bát… thuộc vào nhà bếp, trong khi ghế sa lông hay tivi nằm ở phòng khách.

Kỹ năng góp nhóm giúp trẻ em biết đâu là món đồ chơi của mình, của bạn. Đây cũng là kỹ năng khiến bé biết sắp xếp đồ dùng riêng cũng như vật dụng trong nhà. Khi giúp mẹ cất những bộ quần áo mới mua, bé biết đem của mình vào tủ mình, của ba vào tủ ba, và của mẹ vào tủ mẹ. Bé cũng thường lấy những món đồ chơi của bé mà anh chị em để nhầm và mang trở lại thùng đồ chơi của mình.

2. Chia Nhóm
Chia nhóm là kỹ năng ở chiều ngược lại của góp nhóm. Chia nhóm là khi bé một nhóm gồm những sự vật nào. Thí dụ, bố và mẹ là nhóm người thân, còn ông phát thư hay cô bán bánh mì đầu ngõ thuộc nhóm những người bé biết nhưng không thân tình. Chúng ta không ngạc nhiên nếu thấy một em bé chỉ 6, 7 tháng tuổi đã biết lạ và không cho ai ẵm bồng trừ ba mẹ hay (ông bà nội ngoại và những người thân vẫn ở cùng nhà). Thực sự là bé đã biết chia nhóm để hiểu ai lạ ai quen.

Chia nhóm là khả năng một cá nhân sử dụng khi phải tìm vật dụng nào đó. Thí dụ, bé Mai được mẹ sai đi lấy đôi đũa, bé sẽ vào nhà bếp mà không vào phòng ngủ; bé Tuấn đi tìm đôi vớ trong tủ quần áo của mình thay vì vào ngăn trang điểm của mẹ. Người trưởng thành luôn sử dụng khả năng này: mua thức ăn ở một nơi, sắm sa lông giường tủ ở nơi khác…

3. Mô Tả Chi Tiết
Kỹ năng này phát triển sau khả năng chia nhóm và góp nhóm. Khi mô tả chi tiết, bé biết quan sát màu sắc, hình dạng, kích cỡ, công dụng… của đồ vật và sử dụng ngôn ngữ để diễn tả. Đó chính là khi bé nũng nịu với bà: “Bà ơi, bà mua cho con cái kẹo màu đỏ dài bằng ngón tay của con mà hôm trước bà thưởng cho con được không?” Đó cũng là khi ở tuổi lớn hơn, trẻ có thể viết bài luận văn cao điểm thay vì cạn ý.

Kỹ năng mô tả chi tiết mới nghe có vẻ không thực dụng, bởi việc phải mô tả vật này vật kia không hẳn xảy ra mỗi ngày trong đời sống. Chúng ta cũng thường thấy rằng chuyện viết luận văn, viết văn, viết báo không phải là tài khéo của bất kỳ ai; và rằng không có tài khéo này người ta vẫn thành công trong nghề nghiệp. Thực sự, kỹ năng này là nền tảng của các kỹ năng suy luận cao cấp hơn như so sánh, phân tích, tiên đoán, vân vân.

4. So Sánh
Từ thơ ấu trẻ con đã biết so sánh. Phải biết so sánh bé mới khóc khi bị người lạ bồng bề, sờ chạm. Phải biết so sánh bé mới biết vòi vĩnh mẹ nhưng lại nghe lời ba răm rắp. Khả năng so sánh đi theo bé trong mọi tình huống, từ khi bé chưa đầy năm đến khi bé là người trưởng thành lèo lái, quán xuyến gia đình riêng.

Trong tiếng Việt, chúng ta gộp chung khả năng này và gọi là “so sánh,” trong khi khoa Ngôn Ngữ Trị Liệu chia kỹ năng này làm hai: compare and contrast, nghĩa là nhìn ra điểm tương đồng và điểm khác biệt. Trên thực tế, có những trẻ có thể nhìn ra điểm tương đồng của hai sự vật, nhưng lại không thể thấy điểm khác biệt. Ngược lại, có những em rất giỏi về quan sát điểm tương phản nhưng không nhìn thấy điểm tương đồng.

Bài khám thẩm định chính thức đã được tiêu chuẩn hóa mà tôi thường sử dụng tại Hoa Kỳ đặt kỹ năng tìm điểm tương đồng và tìm điểm dị biệt làm hai cột điểm, bên cạnh Góp Nhóm, Chia Nhóm, Mô Tả. Tôi đã từng thấy những em có khuyết tật ngôn ngữ lúng túng ở một trong hai hoặc cả hai. Thí dụ, khi cho cặp sự vật xe buýt và xe taxi, Johnny nói ngay: “Cả hai đều là phương tiện di chuyển công cộng và phải trả tiền mới sử dụng được,” nhưng rồi Johnny không thể biết xe buýt và xe taxi khác nhau thế nào. Trong khi đó, Jessica có thể chỉ ra xe buýt lớn hơn, chở nhiều người hơn, cũng như rẻ tiền hơn taxi; tuy nhiên em lúng túng khi đựơc hỏi hai xe giống nhau điểm nào. Nếu được nhắc (trong khuôn khổ giờ trị liệu mà không phải trong quá trình khám thẩm định), Jessica kể những chi tiết nhỏ như hai xe đều có vô lăng, có ghế…

Đây là kỹ năng mà trẻ trong phổ tự kỷ rất yếu trong khi các em Asperger lại nổi trội (thường là trên điểm trẻ cùng tuổi). Tôi và đồng nghiệp thường không sử dụng bài thẩm định khả năng suy luận đối với các em có TK dạng nặng hay trung bình.

5. Nguyên Nhân và Hậu Quả/Kết Quả
Đây là kỹ năng chúng ta dùng để nhìn thấy điều a đã gây ra hiện tượng b, hoặc vì c mà d xuất hiện. Có kỹ năng này, bé hiểu rằng mình có cảm giác khát nên cần uống nước, hoặc bé la khóc to vì biết mẹ có thể chiều mình.

Những trẻ yếu khả năng ngôn ngữ thường không định được đâu là nguyên nhân của một hiện tượng. Thí dụ, Đức nghe hết câu truyện về con mèo bỏ đi tìm con, rồi lạc đường về. Đức có thể trả lời chi tiết của truyện theo kiểu: “Ai phải bỏ nhà đi? Mèo mẹ đi tìm ai? Mèo mẹ có bao nhiêu con? Mèo mẹ về nhà chưa?” Tuy nhiên, Đức có thể yên lặng khi được hỏi: “Vì sao mèo mẹ bỏ nhà đi? Mèo mẹ bỏ nhà đi để làm gì?”

Các em có khuyết tật học tập vì trí hiểu giới hạn cũng có thể gặp khó khăn này. Những em chỉ đơn thuần có Thiếu Chú Ý, Thiếu Chú Ý Hiếu Động, yếu khả năng Thẩm Định Âm Thanh thường không bị ảnh hưởng. Nếu có, đó cũng chỉ vì các em không tập trung đủ để trả lời, hoặc không nghe đủ thông tin để phân tích. Khi câu hỏi được trình bày bằng hình ảnh, chữ viết… các em hoàn toàn có khả năng nêu ra điểm tương đồng và dị biệt.

Kỹ năng này là thử thách cho trẻ trong phổ TK. Với các em Asperger, dù có thể bám được mọi chi tiết của một câu truyện, thường ra lại không tìm được liên đới nguyên nhân và kết quả/hậu quả của chúng. Chính vì yếu điểm này, các em trong phổ TK và Asperger rất khó khăn khi nghe người lớn lý luận theo kiểu: “Vì con đánh bạn nên con bị phạt,” “Nếu con thôi cào cấu mẹ, mẹ sẽ thôi ôm chặt tay con.” Các em cần phải học như học hai cộng hai là bốn: đánh bạn, bị phạt; cào mẹ, mẹ giữ chặt hai tay.

6. Tiên Đoán
Kỹ năng tiên đoán ở đây không phải là kết quả của giác quan thứ sáu. Tiên đoán là khi bé biết rằng bé đến bên mẹ nũng nịu, mẹ sẽ ôm bé mà hôn. Tiên đoán là khi Hoàng vẽ lên sách của ba, Hoàng biết mình sẽ bị ba la rầy hoặc xử phạt.

Kỹ năng này quan trọng vì một cá nhân luôn phải ước lượng về những gì sẽ xảy ra chung quanh mình, dù đó là hay không là hậu quả/kết quả trực tiếp từ hành động của mình. Kỹ năng này cũng cần những kỹ năng căn bản khác như so sánh, hầu tiên đoán có thể chính xác.

Kỹ năng tiên đoán còn cần kinh nghiệm làm nền để chúng ta không cần phải nhìn thấy, trải qua mới có thể tiên đoán. Chúng ta gọi đây là kinh nghiệm bậc hai. Thí dụ, Hải biết rằng ớt thì cay dù Hải chưa bao giờ ăn ớt mà chỉ nghe ba mẹ nói thế, hay Loan hiểu rằng đổ nước mía lên áo sẽ khiến áo bị dơ dù Loan chỉ một lần làm đổ súp lên áo mẹ, hoặc Hiếu biết không làm bài sẽ bị cô giáo quở trách dù Hiếu chưa bao giờ bị phạt mà chỉ mới thấy bạn bị phạt.

Các em TK hay Asperger yếu cả hai khả năng cần thiết cho kỹ năng tiên đoán: 1) ước lượng, và 2) rút ra kết luận khi quan sát tình thế hay người chung quanh. Vì thế, các em gặp khó khăn khi phải tiên đoán những gì sẽ xảy ra. Đây là lý do vì sao các em lo âu thường xuyên, và cần có hỗ trợ để biết điều gì xảy ra trong tương lai gần hay xa.

7. Phân Tích Vấn Đề
Phân tích vấn đề có lẽ là kỹ năng cộng góp tất cả những kỹ năng nói trên. Phân tích vấn đề là khi Hoàng vẽ lên sách của ba, biết sẽ bị ba phạt, biết trốn vào phòng vào giờ ba sắp về đến nhà, biết lấy gôm cố gắng tẩy xóa những hình vẽ ấy, biết núp sau lưng bà ngoại khi ba gọi Hoàng ra hỏi tội… Ở thế giới của người trưởng thành, chúng ta sử dụng khả năng phân tích vấn đề thường xuyên, mỗi ngày, liên tục nhiều ngày… trong sinh hoạt từ gia đình đến nơi làm việc. Nhìn thấy mặt bà xã không vui, ông chồng phân tích ngay: cô ấy nhờ mình ghé chợ mua bó rau và một cân thịt mà mình quên, có lẽ đấy là lý do cô phật ý. Thấy mẹ chồng loay hoay trồng cây ớt, cô con dâu phân tích: Mẹ anh ấy bảo mình đi tìm chậu để bà trồng ớt cho ông ăn. Mình đã mua chậu, nhưng không để đất vào, và bà phải trồng xuống đất.

Các em TK hay Asperger vì yếu một hay nhiều kỹ năng từ 1 đến 6, nên thường gặp khó khăn khi phân tích vấn đề. Ngoài ra, vì thế giới làm việc và sinh hoạt của chúng ta lien đới rất nhiều đến những tình cảm và cảm xúc biểu hiện qua lời nói, vẻ mặt, hay chỉ hành động. Các em TK hay Asperger gặp khó khăn hiểu cảm xúc, nên cũng sẽ gặp khó khăn phân tích vấn đề với những suy diễn lien quan đến tâm lý và cảm xúc.

Kết Luận
Khả năng Suy Luận rất cần thiết để một cá nhân điều nghiên hành động và lối ứng xử của mình cho thích hợp với môi trường chung quanh. Có những bài khám thẩm định một chuyên viên Ngôn Ngữ Trị Liệu sử dụng để đánh giá khả năng thẩm định của trẻ. Tôi thường dùng Language Processing Test và Test of Problem Solving Skills. Hai loại bài thẩm định này có thể giúp tìm ra yếu điểm của trẻ, từ đó cung cấp hỗ trợ và can thiệp.

(Riêng về khả năng giải quyết vấn đề, một số em Asperger có thể đưa ra những phương cách giải quyết đúng đắn, chính xác, và thích hợp sau khi nghe những câu chuyện mà chuyên viên thẩm định đưa ra. Điểm số của các em qua bài thẩm định rất cao. Tuy nhiên, các em lại không thể ứng xử thích hợp trong đời thực. Chuyên viên thẩm định không chỉ dựa trên điểm số của bài thẩm định mà còn quan sát và thảo luận cùng giáo viên và phụ huynh để thấy rõ yếu điểm của các em).

Con Của Mẹ sẽ tiếp tục đăng tải những loạt bài kế tiếp, nói đến cách can thiệp và hỗ trợ yếu điểm về Suy Luận.

Thạc sĩ Nguyễn Tường Anh
ConCủaMẹ.com
admin
Site Admin
 
Bài viết: 1410
Ngày tham gia: T.Bảy Tháng 12 13, 2008 11:22 am

Những Sai Lầm Về Tự Kỷ

Gửi bàigửi bởi admin » T.Tư Tháng 4 08, 2009 6:54 pm

Những Sai Lầm Về Tự Kỷ

Theo http://www.brighttots.com
Dịch thuật: Thạc sĩ Nguyễn Tường Anh, Ngôn Ngữ Trị Liệu, http://www.concuame.com


· Trẻ tự kỷ không bao giờ nhìn mắt người đang trò chuỵện với mình. Phần lớn các em không, nhưng một số có thể tập khả năng này nếu được dậy và luyện.
· Mỗi trẻ tự kỷ là một thiên tài. Trẻ tự kỷ có độ thông minh rất khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy một trẻ tự kỷ nhớ hết sinh nhật của bạn bè trong lớp, trừ sinh nhật chính mình. Có em có khả năng làm tính nhẩm rất nhanh, nhưng không biết áp dụng những cộng trừ đơn giản khi đi mua hàng, trả tiền, nhận tiền thối lại…
· Trẻ tự kỷ là những người đần độn. Hoàn toàn sai lầm! Trẻ tự kỷ có lối tiếp thu kiến thức khác chúng ta. Mặc dù chậm trí khá thường xuất hiện ở trẻ tự kỷ, không phải tất cả đều không có khả năng tiếp thu kiến thức.
· Trẻ tự kỷ không tỏ tình cảm. Bày tỏ tình cảm là lãnh vực khó khăn đối với trẻ tự kỷ, nhưng không phải với tất cả mọi em. Được dậy và huấn luyện, dù phải trong thời gian đáng kể, các em có thể học khả năng này.
· Nếu một trẻ tự kỷ tiến bộ, điều đó có nghĩa các em không bị tự kỷ. Điều này không đúng. Khi được huấn luyện đúng cách, có cha mẹ hỗ trợ, các em sẽ tiến bộ.
· Một trẻ biết cười và tỏ tình cảm với cha mẹ, trẻ này không bị tự kỷ. Không chính xác. Mỗi em tự kỷ đều khác nhau, và bằng thời gian, được huấn luyện, được yêu thương, nhiều em không hề biết tỏ bày tình cảm sẽ biết thực hiện điều này.
· Tự kỷ là bệnh lớn lên sẽ hết. Không đúng. Trẻ tự kỷ có thể thăng tiến nếu được huấn luyện đúng cách để sau này có đời sống tốt.
· Tự kỷ là do cách dậy dỗ không đúng từ cha mẹ. Hòan toàn sai lầm!
· Tự kỷ là do lỗi người mẹ trong thời gian mang thai. Hoàn toàn sai lầm!
· Trẻ tự kỷ không thể học hành gì. Sai lầm! Tuy nhiên, điều chúng ta cần nghiên cứu là tìm đúng cách để dậy các em.
· Tự kỷ rất hiếm xẩy ra. Sai lầm!
· Trẻ tự kỷ không bao giờ nói được. Nhiều em tự kỷ học được khả năng ngôn ngữ rất khá. Phần lớn các em có thể học được khả năng bày tỏ tư tưởng, như dung dấu hiệu, hình ảnh, computer hay các dụng cụ điện tử.

ConCủaMẹ.com
admin
Site Admin
 
Bài viết: 1410
Ngày tham gia: T.Bảy Tháng 12 13, 2008 11:22 am

Khả năng giao tế, phần 1

Gửi bàigửi bởi phi » T.Năm Tháng 4 30, 2009 8:19 pm

Khả Năng Giao Tế - phần 1

Tác giả: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Trị Liệu, http://www.concuame.com

KHÁI QUÁT

Giao tế là kỹ năng cần thiết đối với mọi cá nhân, mọi thành viên của xã hội sống hợp quần. Chung quanh chúng ta, có những người được cho là “khéo giao tiếp.” Đó có thể là cô Loan lúc nào cũng nhỏ nhẹ, hay anh Tuấn luôn bình tĩnh dù phải nghe những lời chỉ trích, hoặc ông giám đốc Toàn biết sửa lỗi nhân viên bằng những lời từ tốn. Có những người khác lại mang tiếng “vụng về.” Thí dụ như cậu Khánh luôn cho rằng chỉ ý kiến của mình mới đúng, hay bé Thủy không bao giờ chấp nhận mình sai. Có những người mà chúng ta nhận định đơn giản là “vô duyên.” Họ đang nói chuyện này bỗng xọ sang chuyện khác. Họ cũng có thể nói mãi về một chủ đề, và nói đi nói lại những chi tiết đã nói rồi, dù những người chung quanh đã đi sang chủ đề khác. Họ có khi đứng quá sát người đối diện khiến ai cũng cảm thấy không gian cá nhân bị xâm phạm. Còn lại, đại đa số chúng ta có khả năng giao tiếp ở mức trung bình.

Sử dụng ngôn ngữ

Giao tế là kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một cá nhân có nền tảng căn bản về nhiều kỹ năng khác. Trước tiên là khả năng sử dụng ngôn ngữ để truyền tải tư tưởng. Ngôn ngữ được sử dụng có thể là lời nói, dấu tay, chữ viết, hình ảnh, v.v.. Dù ở hình thái nào, ngôn ngữ mà một cá nhân sử dụng phải khiến người nghe hiểu được. Tiến trình giao tiếp bị trục trặc nếu người nghe không hiểu lối bày tỏ của người nói. Thí dụ, bé Mai nói ngọng nên mẹ không hiểu bé muốn ăn gì, bé Khôi ra dấu bằng tay nhưng người bạn – vì không hiểu ngôn ngữ ra dấu tay – nên tròn mắt nhìn, bà Trúc nói nhanh và nhiều khiến con bà không kịp nhớ những gì bà dặn…

Tiếp thu ngôn ngữ

Sử dụng ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, thì tiếp thu ngôn ngữ sẽ là yếu tố kế tiếp. Một cá nhân phải hiểu được lời nói hay câu hỏi của người đối diện để câu chuyện có thể tiếp tục. Bé Hiền phải hiểu câu hỏi “Con muốn mặc áo đầm hay quần jean?” của mẹ để có thể cùng mẹ chọn áo quần bé thích. Bé Khôi, khi được hỏi cùng câu hỏi, lẽ ra phải cười vì biết mẹ đang có ý ghẹo mình. Bé Khôi có thể trả lời: “Con là con trai mà!” Khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở mức độ cao hơn còn có những lời nói ví von, mang nghĩa bóng… Anh Đức nghe mẹ khen: “Gớm, con trai mẹ bây giờ nấu cơm giặt giũ giỏi thế nhỉ!” Biết đâu bà mẹ đang khó chịu khi thấy cậu con trai cưng phải xuống bếp làm việc nhà.

Đoán biết âm giọng, từ ngữ

Đoán biết âm giọng, từ ngữ của người nói là kỹ năng quan trọng. Anh Đức có thể biết mẹ mình đang khen anh và vui thực lòng, hay đang khó chịu, qua âm giọng của bà. Trẻ con biết nghe âm giọng cha mẹ, thầy cô mà đoán ra chúng đang ngoan ngoãn hay đang bị khiển trách. Một em bé tự kỷ có thể khóc hay tỏ ra sợ sệt, bịt tai, chạy trốn khi nghe giọng nói nghiêm khắc của cô giáo hay ba mẹ. Các cô cậu học cấp 3 có thể “lạnh gáy” khi nghe những từ “anh, chị, cô, cậu” như trong câu “Bây giờ anh 17 tuổi, anh còn nghe lời chúng tôi không?” hay “Cô bao nhiêu tuổi mà cô dậy khôn cha mẹ?” Tuy nhiên, cũng chữ “anh, chị” được dùng bằng âm giọng ôn tồn, các em sẽ thấy được tôn trọng: “Nay anh đã lớn, ba mẹ mong anh sẽ giúp ba mẹ kèm các em học ở nhà.”

Giao tiếp mắt

Vì giao tế cần ngôn ngữ, giao tế cũng cần khả năng giao tiếp mắt khi trò chuyện. Có vẻ như đây là kỹ năng người ta sinh ra đã có, không cần ai dậy. Thực sự, với đại đa số chúng ta, đúng là việc nhìn vào mắt người đối diện là những gì không ai phải dậy. Đứa bé được mẹ ôm trong tay, ở vài tháng tuổi, đang bú mẹ mà mắt cứ nhìn chăm chăm vào mặt mẹ. Rồi ở tuổi biết lẫy, biết bò, chập chững đi… đứa bé luôn nhìn vào mắt bố mẹ khi đòi bồng ẵm, khi nhõng nhẽo, nũng nịu, hay khi xin đồ chơi này, thức ăn kia… Đúng là không ai dậy đứa bé sơ sinh kia phải nhìn vào mắt người đối diện, và có vẻ như đó là những gì tạo hóa đã ban cho mỗi bào thai. Các nhà chuyên môn tin rằng trẻ con nhìn mắt người lớn trước tiên là để yêu cầu, đòi hỏi. Sau đó, chúng quan sát người chung quanh giao tiếp với chúng, và hiểu rằng mắt nhìn mắt là một quy luật của giao tế: phải nhìn nhau để tỏ ra đang nghe nhau, chú ý đến nhau; và không nhìn có thể là biểu tỏ của làm ngơ, giận dỗi…

Khả năng ghi nhớ những dữ kiện nghe được

Rất nhiều khi, trong giao tiếp, chúng ta nhận được thông tin dồn dập. Người hỏi có thể hỏi một câu hỏi sau khi đưa ra hơn một dữ kiện: “Vào thứ Năm tuần tới, khoảng 8 hay 9 giờ sáng, con có thể đón dì Út rồi đưa mẹ và dì Út lên nhà bác Hai không?” Người nghe phải nhớ những dữ kiện này để có thể tổng hợp và phân tích chúng trước khi đưa ra câu trả lời.

Người nói thường bắt đầu tư tưởng của mình bằng câu thứ nhất, và có thể chấm dứt ở câu thứ năm, thứ sáu. Người nghe phải nhớ và thống kê những thông tin của người nói để đáp lời cho thích hợp.

Trong khuôn khổ một buổi thảo luận hay tranh luận, chúng ta có thể gặp khó khăn vì dữ kiện và thông tin tràn ngập, vượt quá mức mà trí nhớ chúng ta có thể kịp ghi lại (vì cùng lúc não còn phải phân tích và phán đoán). Lúc ấy, chúng ta sẽ dựa trên giấy bút để lấy nốt, ghi phác lại, hay tốc ký.

Trí hiểu tổng quát

Giao tế dĩ nhiên cần trí hiểu tổng quát. Thí dụ, để biết chào hỏi cho thích hợp, một cá nhân phải biết đoán định quan hệ họ hàng: đây là bác, tức anh của ba/má; đây là bà, là mẹ của ba/má hay là chị/em của bà nội/bà ngoại, v.v.. Nếu người đối diện không có quan hệ họ hàng, khả năng đoán định vẫn cần thiết: tôi chào cụ vì người ấy ở tuổi trên cả ông bà tôi, tôi chào cô vì người này có vẻ trẻ hơn cha mẹ tôi. Nếu cô gái này ở tuổi của tôi hoặc nhỏ hơn tôi một chút, tôi có thể gọi bằng cô hay ngay cả bằng chị. Khi gặp gỡ cấp trên, cấp dưới, lối xưng hô trở nên khách sáo hơn, và khả năng giao tế của một cá nhân đòi hỏi cá nhân ấy phải xưng “tôi.” Tuy nhiên, cũng chính khả năng giao tế ở nơi làm việc cho phép một cá nhân có thể xưng tên hay xưng “anh,” “cô,” “bác”… nếu quan hệ làm việc thân tình và đủ tin cậy. Cô thư ký Quỳnh, trong những ngày đầu tại hãng xưởng mới, có thể xưng “Quỳnh” với cô gái trả lời điện thoại ngồi bên cạnh, nhưng sẽ xưng “tôi” với anh chàng trưởng phòng kế hoạch ở gần tuổi của cô, và xưng “em” với chị trưởng phòng nhân sự. Nếu khéo giao tế, Quỳnh sẽ biết rằng xưng “tôi” với cô gái trả lời điện thoại có thể khiến Quỳnh có vẻ kiêu ngạo và xa cách, trong khi xưng “em” với anh chàng trưởng phòng kế hoạch sẽ làm cô bị hiểu lầm là sàm sỡ.

Quan sát và phân tích

Giao tế cũng đòi hỏi một cá nhân biết quan sát và phân tích. Chi thấy mặt mẹ không vui, miệng mẹ không hôn, tay mẹ không ôm, Chi hiểu mẹ đang giận. Khả năng phân tích sẽ cho Chi biết rằng hồi sáng Chi khóc khi vào lớp, rồi Chi còn kéo tóc bạn để cô giáo phải kêu cho mẹ. Với chúng ta, trong thế giới người lớn, chúng ta thường xuyên quan sát người chung quanh để đoán định tình cảm, ý muốn… của họ. Tôi được anh chị B mời đến nhà bàn thảo sự việc đáng tiếc khi con tôi và con anh chị B đánh nhau tại trường. Tôi bước vào nhà và thấy mặt chị B lạnh như tiền. Anh B ngồi sẵn ở phòng khách, chân bắt chéo, và chỉ khẽ gật đầu để đáp lời mời của tôi. Tôi có thể hiểu ngay anh chị B đang cho rằng lỗi hoàn toàn ở con tôi. Ngược lại, nếu cả hai anh chị cùng ra cửa đón tôi với những nụ cười và lời chào nồng nhiệt, tôi biết tôi có thể dễ dàng cùng anh chị thông cảm và giúp hai đứa trẻ tiến bộ.

Khả năng quan sát này có vẻ thiếu đi ở một số cá nhân. Nói cách khác, kỹ năng đọc vẻ mặt, cử điệu… hình như không phải ai cũng có. Bé Nhân không biết rằng bà ngoại mệt nên mới nằm liệt trong giường, bé vô tư đòi bà bế bé ra chợ. Chị Hoa cứ huyên thuyên kể chuyện con mình nhận bằng khen, và không nhận ra ánh mắt thoáng buồn của người bạn có đứa con chậm phát triển. Những cá nhân quan sát giỏi thường có khả năng chỉnh sửa lời nói và thái độ của mình. Bé Mi đang líu lo: “Bố ơi, bố ơi, bố có nghe con không? Bà cho con trái táo đẹp quá đây này! Bố nhìn này…” và bỗng im lặng rón rén ra khỏi phòng khi thấy bố bé đang nghe điện thoại. Cũng bé Mi, Mi hăng hái kể “Con gấu trèo lên cây này mẹ, nó lấy đá ném vào anh của nó.” Khi thấy mẹ tròn mắt nhìn mình, Mi có khả năng sửa lại câu chuyện: “Nó dọa thế thôi mẹ ạ. Nó đùa đấy mà! Gấu đâu có đánh anh, mẹ nhỉ!”

KHẢ NĂNG GIAO TẾ VÀ TRẺ EM TRONG PHỔ TỰ KỶ

Nhóm trẻ em trong phổ tự kỷ, từ dạng nặng đến dạng nhẹ (Asperger), thiếu khả năng giao tế. Điều này có lẽ không khó hiểu nếu biết rằng khả năng giao tế là tổng hợp của rất nhiều kỹ năng, từ đơn giản như phát âm chỉ một từ hay đoán nét mặt buồn/vui, đến phức tạp như hiểu lời nói bóng gió hay tỏ ý không hài lòng một cách tế nhị.

Các em tự kỷ hay Asperger thường bị hiểu lầm là đứa trẻ kỳ quặc (vì không nhìn mắt người đang nói với mình), hoặc đứa trẻ được chiều chuộng quá mức (vì òa khóc khi mới nghe nửa lời chỉ trích). Rất nhiều những ánh mắt chiếu vào các em với lời bình phẩm như “mất dậy,” “quá hư,” hay ngay cả “khùng khùng điên điên”… khi các em có những thái độ giao tiếp không thích hợp ở chốn công cộng.

Ngay cả bậc cha mẹ, thương con vô cùng, cũng có khi thấy mình hoàn toàn không hiểu nổi vì sao con lại có thể cào cấu mặt mẹ chỉ vì không lấy được con gấu yêu thích. Không ít khi cha mẹ ngạc nhiên: “Sao bé lại không hiểu rằng khi chơi game không phải lúc nào bé cũng phải thắng?” Hay “Sao tôi đã cố gắng nói mãi mà cháu ở nhà vẫn không nhìn mắt tôi khi tôi nói?”

Điều khó khăn là rối loạn tự kỷ đã lấy đi khả năng của các em để quan sát và học khả năng giao tế từ người chung quanh. Các em vẫn thấy anh, chị, em của mình bị phạt vì đánh người khác, nhưng các em không rút được kết luận để chính các em không nên đánh ai. Các em chứng kiến bạn A bị phạt ngồi khoanh tay trên ghế vì xé vở của bạn, nhưng các em liên đới để đừng xé vở của ai. Các em Asperger, dạng tự kỷ nhẹ, thường xuyên nghe các bạn trò chuyện với nhau, nhưng không bắt chước được một câu để chính mình bắt chuyện với ai.

Những khả năng giao tế vì thế cần được dậy cho các em tự kỷ hay Asperger như những bài học thuộc lòng, cũng giống như chúng ta dậy 2 cộng 2 là 4, hay hình có ba cạnh mang tên tam giác.

Tuy nhiên, chúng ta cũng hiểu rằng ngôn ngữ, tình cảm và lối biểu tỏ của con người đa dạng và thay đổi muôn cách, trong khi kiến thức 2 cộng 2 là 4 là loại kiến thức bất di bất dịch. Do vậy, dậy khả năng giao tế gian nan hơn dậy cộng trừ nhân chia. Hơn nữa, khả năng giao tế qua những bài học chỉ có hiệu quả nhất định nếu một cá nhân tự kỷ hay Asperger không phát triển được khả năng liên đới và khái quát hóa.

KẾT LUẬN


Giao tế đúng là khả năng phức tạp, vì những đề mục nhỏ trên đây chỉ là một phần của giao tế. Để thành công trong giao tế, một cá nhân còn cần nhiều các kỹ năng khác.

Vì mục đích của bài viết hướng đến khả năng giao tế mà chúng ta cần huấn luyện cho các em chậm phát triển, Down, tự kỷ, Asperger… chúng tôi xin gợi ý phân loại các kỹ năng này như sau:

1. Làm theo mệnh lệnh
2. Chấp nhận lời chỉ trích, góp ý
3. Chấp nhận câu trả lời “không”
4. Giữ bình tĩnh
5. Không đồng ý
6. Yêu cầu được giúp đỡ
7. Xin phép
8. Thuận thảo với người khác
9. Xin lỗi
10. Trò chuyện
11. Khen
12. Nhận lời khen
13. Nghe người khác nói
14. Chân thật
15. Tỏ lòng thông cảm
16. Tự giới thiệu

Trong những phần sau của loại bài này, 16 kỹ năng trên đây sẽ được thảo luận đi kèm những gợi ý để phụ huynh dậy cho các em bé tự kỷ/Asperger hay chậm phát triển.

(hết phần 1)
Tác giả: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Trị Liệu, http://www.concuame.com
Sửa lần cuối bởi phi vào ngày T.Năm Tháng 4 30, 2009 8:24 pm với 1 lần sửa.
Phi
Special Ed.
Hình đại diện của thành viên
phi
 
Bài viết: 5627
Ngày tham gia: CN Tháng 2 08, 2009 10:23 am

Khả năng giao tế, phần 2

Gửi bàigửi bởi phi » T.Năm Tháng 4 30, 2009 8:23 pm

Khả Năng Giao Tế - phần 2

Tác giả: Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Trị Liệu, http://www.concuame.com

1. Làm theo mệnh lệnh

Kỹ năng làm theo mệnh lệnh trong bài viết này không nhắm đến thói quen nhắm mắt vâng lệnh trên, hay cúc cung tuân lời chủ mà xã hội vẫn coi là phản ứng thụ động của kẻ yếu thế, hèn nhát. Làm theo mệnh lệnh ở đây là thái độ cộng tác tích cực tại gia đình, trong lớp học, ngoài xã hội.
Làm theo mệnh lệnh có thể coi là bài học mang tính xã hội đầu đời mà em bé nào cũng được học. Lơ ngơ vài tháng tuổi, bé đã nghe mẹ nói đi nói lại bên tai: “Đến giờ rồi, bé con bú nhé!” hay “Trưa nóng, mẹ tắm mát cho con này!” Khi biết bò, bé có thể đã nghe: “Đừng bò vào gầm bàn, đụng đầu đấy!”, “Con bò lại đây nào!” Lúc chập chững đi, những câu khuyến khích: “Cố lên nào, bước bước nữa đi con!” hay “Ba đây nè, con bước lại với ba!” cũng là những mệnh lệnh.
Kỹ năng làm theo mệnh lệnh thường là bài học đầu tiên cho trẻ tự kỷ hay chậm phát triển vì khả năng này cần thiết để một học sinh trở nên thành viên tích cực của lớp: bé A cần nín khóc, bé B nên thôi nhẩy trên bàn, bé C phải làm viết cho xong bài tập viết…
Kỹ năng làm theo mệnh lệnh còn là căn bản để các em học sinh trong lớp đón nhận kiến thức mới: “Bây giờ chúng ta học toán. Các em mở sách trang 3 nhé. Các em có thấy hình đầu tiên không? Đếm cho cô xem trong hình ấy có bao nhiêu trái cam?”

Với các em tự kỷ/chậm phát triển, làm theo mệnh lệnh được sử dụng nhiều vì đây cũng là phương cách để dậy danh từ hay giới từ ở cấp độ căn bản nhất: “Để bút chì lên hộp màu xanh,” “Lấy cái thìa bỏ vào ly màu đỏ,” “Các con lấy màu nâu và tô con gấu cho cô, rồi lấy màu vàng tô mặt trời!” hay “Ai biết hát Bé Lên Ba thì dơ tay lên nào!”
Với các em có trình độ khá hơn, mệnh lệnh gia tăng mức phức tạp: “Các em dở trang 12, và làm các bài tập có số chẵn. Bài số lẻ ngày mai chúng ta mới làm!”

Dậy bé làm theo mệnh lệnh

Bậc phụ huynh có thể luyện cho con em khả năng này tại nhà. Điều tế nhị là nhận biết trình độ của các em: bé biết tên vật dụng nào, bé biết bao nhiêu màu sắc/hình dạng, bé có thể nghe câu nói dài bao nhiêu chữ, bé cần được nghe một câu nói nhắc lại bao nhiêu lần.
Bài học sẽ không làm cho bé giận dữ hay quá tải nếu được soạn dựa trên những vật dụng bé đã biết rành rẽ. Xin lưu ý, vì mục đích là để luyện khả năng làm theo mệnh lệnh, chúng ta chỉ chọn những vật dụng bé đã biết. Nếu mục đích để mở rộng vốn từ, chúng ta mới chọn những gì bé chưa biết. Khi đã có danh sách những gì bé biết tên, các bạn có thể chọn ra 5 hay 6 vật một lần (nhiều đồ vật có thể làm cho bé chia trí). Bạn hãy soạn sẵn những mệnh lệnh để có đọc chúng cho con một cách xuông xẻ và lập lại y như đã đọc. Những mệnh lệnh này có số chữ dài bằng số chữ mà bé có thể nghe và hiểu. Ngoài ra, từ ngữ sử dụng trong mệnh lệnh cũng nên nằm trong vốn từ bé đã có.

Thí dụ, bạn chọn được cái muỗng, cái bát, bút màu vàng, chiếc kẹp tóc, và cái lược, bạn có thể soạn sẵn những mệnh lệnh như: đưa mẹ cái bát, bỏ bút màu vào bát, lấy kẹp tóc để lên đầu con, bỏ cái lược xuống đất, v.v..

Bạn có thể thấy rằng mỗi câu trên đây có khoảng 3 chi tiết. Thí dụ “đưa mẹ cái bát,” chúng ta có đưa, mẹ, và cái bát. Số mệnh lệnh này sẽ tăng lên tùy theo trình độ của bé. Sau này, có những mệnh lệnh phức tạp hơn như: “Để cái xe màu đỏ lên cái hộp màu tím, rồi lấy tay trái sờ lên vai phải!”

Phần lớn trẻ em khi mới tập bài tập làm theo mệnh lệnh sẽ cần được nghe lại mệnh lệnh nhiều lần. Có em chỉ nghe hai lần là làm được, có em cần đến 5 lần. Chúng tôi dựa trên kinh nghiệm để đề nghị nhiều nhất là 5 lần. Ở lần cuối cùng, người dậy sẽ cầm tay bé để thực hiện mệnh lệnh thay vì tiếp tục chờ đợi bé.

Vì bài học làm theo mệnh lệnh cũng còn có thể dùng để dậy các ý niệm khác, hy vọng các bạn sẽ không khiến cho bài học trở nên phức tạp quá trình độ của bé. Một bài học quá trình độ có thể làm cho bé quá tải, làm cho người dậy thất vọng, và không mang lại hiệu quả mong muốn.
Nếu muốn dậy các ý niệm khác, chúng tôi đề nghị các bạn soạn bài theo các chủ đề khác nhau, thí dụ: giới từ (học về bên trên, dưới, trái, phải, cạnh, sau, trước…), danh từ (những vật bé cần biết tên như bộ phận cơ thể, đồ dùng trong khung cảnh gia đình, trường lớp…, số, chữ…), động từ (dơ tay, đi, ngồi, nghiêng đầu, nhắm mắt…), vân vân.

Khi bắt đầu bài học cho bé, hãy bảo đảm là khung cảnh chung quanh tĩnh lặng và không làm bé chia trí. Bạn cũng nên cho phép bé được nghỉ dãn xả giữa giờ bằng một vòng đi bộ quanh vòng, uống một hớp nước… Khi bé tỏ vẻ phẫn nộ vì nét mới mẻ hay độ khó của bài, bạn có thể cắt ngắn bài học ở những lần đầu. Khi đọc một mệnh lệnh cho bé, bạn có thể cầm lấy hai tay bé và mắt nhìn mắt để giúp bé chú ý vào lời bạn. Khi mệnh lệnh đã được đọc xong, bạn thả tay bé ra để bé bắt thi hành mệnh lệnh. Nếu cần, bạn có thể giúp bé nhắc lại mệnh lệnh này. Dậy bé xin “Mẹ/Ba đọc lại đi” cũng cần thiết để sau này vào lớp bé biết cho thầy cô hiểu rằng bé cần họ nhắc lại mệnh lệnh.

2. Chấp nhận lời chỉ trích, phê bình

Chấp nhận lời chỉ trích, phê bình? Có vẻ như chúng ta đang nói đến tính khiêm nhu của người lớn. Điều này cũng chẳng sai. Không thiếu những giây phút chúng ta thấy “nóng mặt” vì lời nói của người đối diện. Món ăn vừa nấu xong, chồng bảo: “Nêm hơi thiếu ngọt!” Nhà vừa sơn xong, vợ chép miệng: “Giá mà màu vàng nhạt hơn sẽ đẹp hơn!” Những lời chỉ trích đưa ra ở chỗ đông người còn khó nghe hơn, thí dụ như khi chúng ta bị phê bình trong cuộc họp, giữa khi vui vẻ với bạn bè, trong bàn tiệc, vân vân.

Với đa số trẻ em, việc chấp nhận lời phê bình không phải là điều khó khăn. Các em vẫn có thể bình tĩnh nghe mẹ la, ba mắng, ông bà rầy. Các em cũng thường nghe bạn chê: “Bạn tô mầu xấu thế!” hay “Áo của bạn không đẹp bằng áo của mình!” Khi cô giáo chấm điểm và phê bình bài các em trước lớp, không có nhiều những trường hợp các em khóc lóc, bắt đền, giận dữ.

Với các em tự kỷ, chấp nhận lời phê bình là điều khó khăn không phải vì các em tự ái, cũng không vì các em chủ quan, mà đơn giản chỉ là những lời nói ấy mang âm giọng và ý nghĩa tiêu cực. Những em có trí hiểu cao hơn một chút khó chịu với lời chỉ trích, phê bình vì hiểu rằng người nói không chấp nhận những gì các em đang thực hiện.
Các nhà chuyên môn tin là các em mang hội chứng Asperger có khả năng hiểu rằng lời phê bình là tiền đề của những đổi thay: “Trọng, bài làm của em thiếu phần tóm tắt đại ý. Em nên làm thêm rồi nộp lại cho cô!” hay “Mỹ ơi, con xô bạn là xấu! Con phải xin lỗi bạn thay vì bỏ đi như thế!”

Dậy bé chấp nhận lời chỉ trích, phê bình

Các em bé tự kỷ nên học khả năng này một cách máy móc: “Khi ba mẹ, ông bà hay cô giáo la rầy, con phải nghe!” hay “Ba mẹ dậy, con không được khóc la!”
Các em Asperger hay chậm phát triển có thể có khả năng nghe bạn lý luận: “Cô giáo nói con phải làm lại bài vì con viết chữ quá ẩu tả. Cô giáo nói đúng, con sai! Khi mình sai, mình phải sửa. Khóc không phải là thái độ thích hợp!” Ngoài ra, rất nhiều em bé Asperger trở thành mục tiêu chọc ghẹo của bạn bè. Lời phê bình ác ý trong trường hợp này không nên được chấp nhận, mà bạn phải dậy các em đối phó.

Với lời phê bình có tính tích cực, vì trẻ em mang rối loạn Asperger hay chậm phát triển có khả năng nhận xét và điều chỉnh cử chỉ, điệu bộ của mình, bạn có thể dậy các em:

· Cố gắng giữ bình tĩnh khi nghe người khác phê bình. Hít một hơi thở sâu nếu cần.
· Đừng để lộ vẻ mặt giận dữ vì thái độ ấy chỉ khiến người lớn bực mình thêm.
· Nếu cần đối đáp, hãy giữ giọng nói nhỏ nhẹ. Đừng la lối. Đừng khóc lóc.
· Nếu không hiểu vì sao mình bị chỉ trích, các em có thể hỏi lý do, hoặc bàn thảo với những người lớn khác.

Với những lời chọc ghẹo ác ý, hãy dậy các em đối đáp khôn ngoan và bình tĩnh:
· Soạn sẵn một số câu để các em học thuộc lòng và sử dụng: “Bạn không được quyền nói về mình như thế!”, “Tôi sẽ không tiếp tục chơi với bạn lúc này,” “Tôi sẽ báo với cô giáo về lời nói của bạn,” v.v..
· Tìm giáo viên hay phụ huynh của người bạn chọc ghẹo mình để đề nghị họ can thiệp.

· Cố gắng không khóc, không tỏ ra giận dữ vì những thái độ ấy chỉ làm cho những người bạn xấu miệng thích thú.
· Nói ngay với ba mẹ về những gì xảy ra tại trường để ba mẹ yêu cầu nhà trường can thiệp.

3. Chấp nhận câu trả lời “không”

Đây cũng là kỹ năng mà không hẳn người lớn đã toàn hảo. Câu trả lời “không” là câu xác định rằng ý kiến hay đề nghị của chúng ta không được chấp thuận. Thường thì chúng ta đối phó với câu trả lời “không” dễ dàng hơn những lời phê bình kéo dài năm bảy đoạn văn, gồm những từ ngữ sắc bén gây mất lòng.
Các em bé thường hay đáp trả lời từ chối của cha mẹ với chữ “không” bằng cách nũng nịu, khóc lóc, năn nỉ. Có em khóc cho đến khi cha mẹ đổi ý mới thôi. Có em khóc òa rồi thôi. Có em hai ba hôm sau lại năn nỉ ỉ ôi.

Các em tự kỷ không có kỹ năng điều đình để năn nỉ. Các em thiếu khả năng ngôn ngữ để lèo nhèo xin cho bằng được. Các em cũng không biết làm nũng, phụng phịu để đòi hỏi. Các em sử dụng đòn thế duy nhất: khóc! Hung hăng hơn, các em dẫy đạp, lăn xuống đất, cào cấu người khác, làm đau chính mình… Lý do: “không” đồng nghĩa với việc ý kiến của các em bị phủ nhận. Thế giới riêng có cánh cửa nhỏ của các em tự kỷ khiến các em đóng khung trong ấy, và không hiểu những quy lệ của gia đình, lớp học cũng như xã hội chung quanh. Những gì khác với thế giới của các em, mà chữ “không” là một, đều có thể là ngòi châm một cơn bùng nổ.

Dậy bé chấp nhận câu trả lời “không”

Việc dậy các em chấp nhận câu trả lời “không” trở nên cần thiết để các em hòa hợp được cùng thế giới mà các em đang sống với.

Câu trả lời “không,” cách nào đó, cũng tương tự với lời phê bình và chỉ trích trong ý niệm chúng trái với mong đợi của các em. Cách huấn luyện cũng tương tự. Với các em bé, bạn nên tập cho các em quen với câu trả lời ấy bằng cách làm lơ những lần các em khóc lóc la lối, và kiên nhẫn giữ lập trường của mình. (Xin nhớ là một lần nhượng bộ sẽ đưa bạn trở lại những bước đi đầu tiên, và rất khó để đưa bé trở lại vị trí hiện tại). Với các em tự kỷ dạng trung bình hay nhẹ, bạn có thể đưa vào những lý luận (đơn giản đến phức tạp tùy trình độ hiểu biết của từng cá nhân). Những phản ứng thích hợp cũng tương tự như khả năng chấp nhận lời phê bình: không tỏ vẻ khó chịu hay giận dữ, dùng lời nói nhỏ nhẹ. Điểm đáng chú ý ở khả năng này là bạn nhớ dậy các em tránh hỏi lý do tại sao ngay khi câu trả lời “không” được đưa ra. Người luôn hỏi “vì sao” có thể bị hiểu lầm là muốn cãi gàn. Thái độ khôn ngoan các em nên có là chấp nhận quyết định ấy của người lớn, và quay lại thảo luận sau.

Trước những câu trả lời “không” mang tính phi lý, bạn nên dậy các em phản ứng thay vì im lặng chịu thua. Thí dụ bạn A không chịu chia chung đồ chơi dù cô giáo đã yêu cầu phải chia, hay bạn B từ chối xin lỗi vì đã phỉ mạ con bạn, bé có quyền phản ứng. Bé có thể đến nói với cô giáo về thái độ của bạn A và bạn B. Tuy nhiên, đây là phản ứng gián tiếp, không phải phản ứng trực tiếp. Bạn nên dậy con đừng trả lời hay tỏ vẻ giận dữ với những người bạn này, mà lập tức bỏ đi tìm cô giáo.

4. Giữ bình tĩnh

Không ít khi chúng ta chứng kiến các em tự kỷ hay Asperger có những cơn bùng nổ. Đôi khi chúng ta biết lý do, có lúc chúng ta không hiểu vì sao. Cơn giận dữ có vẻ như đến với các em dễ dàng, và cũng dễ dàng gia tăng đến đỉnh.
Chúng ta cũng có những cơn giận dữ trong cuộc sống đầy lao nhọc và lo toan. Dù vậy, khả năng điều hòa và kiềm chế bản thân của chúng ta giúp chúng ta giữ cho đầu óc mình tỉnh táo, hành động mình thích hợp. Dĩ nhiên, trong chúng ta có người này nóng tính hơn người kia, nhưng “bùng nổ” thì gần như không, trừ những cá nhân mà các chuyên gia tâm lý phải giới thiệu đi chữa trị về “anger management - kiềm chế sự giận dữ.”

Vì sao đại đa số chúng ta có thể kiềm chế cơn giận dữ, trong khi các em tự kỷ thì không? Không phải vì chúng ta là người trưởng thành! Các trẻ em khác phát triển đúng chuẩn cũng biết dằn cơn giận của chúng đấy chứ!

Vậy ở đây điều khác biệt giữa nhóm người tự kỷ và nhóm người không tự kỷ là gì? Là khả năng đo được tác hại của những hành động bất xứng phát sinh từ cơn bùng nổ, là khả năng hiểu rằng xã hội không chấp nhận những hành vi bất hợp của sự giận dữ.

Dậy bé giữ bình tĩnh

Để dậy một bé tự kỷ giữ bình tĩnh, bạn có thể phải bỏ qua bước lý luận, mà chỉ dậy thuộc lòng những kỹ năng cần có:

· Hít thật sâu, thở ra chậm. (Xin nhớ rằng những hơi thở sâu liên tiếp có thể gây chóng mặt).
· Đếm từ 1 đến 10.
· Nếu cần, sắp sẵn cho bé quả banh mềm hay món đồ chơi bằng nhựa mềm để bé bóp.
· Bé có thể nói lên cảm xúc: giận, tức, muốn khóc, đau đầu, đau tai… Nếu bé chưa nói thành lời, bạn có thể sắp sẵn cho bé một số hình mặt cười, mặt mếu, hình biểu tỏ đau đầu, tức giận, sợ hãi… để bé sử dụng. Một số em có thể viết, bạn cho các em cuốn nhật ký để các em viết xuống cảm xúc của mình.

hết phần 2
Thạc sĩ Nguyễn Tường Anh, Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Trị Liệu, http://www.concuame.com

ConCủaMẹ.com
Phi
Special Ed.
Hình đại diện của thành viên
phi
 
Bài viết: 5627
Ngày tham gia: CN Tháng 2 08, 2009 10:23 am

Trang vừa xem

Quay về Những bài viết về Tự Kỷ

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.5 khách.

cron