Dưới đây là bài viết của cô Anh về bệnh Tự kỷ được đăng trên tờ Việt Mercury -- một tờ báo tiếng Việt lớn nhất phát hành tại miền Bắc bang California.
Con tôi là học sinh cá biệt?
May 18, 2007
Nguyễn Anh
Anh Dzũng Bùi dấu nước mắt, cúi đầu. Giọng anh như thì thầm, tay nắm chặt cây bút: “Con tôi là học sinh cá biệt.” Anh Dũng ký vào tập hồ sơ do nhà trường đưa ra bàn thảo với anh và chị Kimmy Bùi, vợ anh. Khi anh chuyền cây bút để chị cùng ký tên, chữ ký của chị Kimmy nhòa vì nước mắt của cả hai vợ chồng.
Anh Dzũng kể: “Đó là ngày 1 tháng 11 năm 2003. Cháu M. nhà tôi đang học lớp 2. Nhà trường mời chúng tôi đến họp nhiều lần để bàn phương cách giúp cháu đạt cùng trình độ với bạn bè. Cuối cùng, họ mời chúng tôi ký giấy để nhóm chuyên viên giáo dục đặc biệt (special education staff) gặp riêng cháu. Mục đích của họ là tìm xem việc cháu gặp khó khăn trong học vấn có phải vì một chứng rối loạn nào đó không.”
Cậu bé tên M. lúc ấy mở cửa vào nhà. Cậu chào hỏi lễ phép, và hỏi: “Are you talking about me, Dad? Ba nói về con phải không Ba?” Anh Dzũng xác nhận: “Đúng rồi. Nhà báo hỏi xem con của ba mẹ có điểm gì trội vượt so với các bạn,” rồi yêu cầu con trở lại gặp khách sau khi tắm rửa.
Anh Dzũng cho biết ở tuổi mẫu giáo, lớp một, bé M. cũng nghịch ngợm như bất kỳ cậu bé hiếu động nào: “Thấy con chạy nhảy, luôn chân luôn tay, chúng tôi nghĩ vì nó là con trai, và lớn lên sẽ bớt hiếu động. Vào đến lớp hai thì cháu càng lúc càng khác xa bạn bè.”
Theo anh Dzũng, nhóm giáo dục đặc biệt của nhà trường gồm một chuyên viên tâm lý, một chuyên viên về phát triển ngôn ngữ, và một chuyên viên phụ trách tất cả các môn khác trong độ tuổi tiểu học. Họ đã gặp riêng M. và có những bài khám định bệnh, định khả năng. Anh nói: “Trong thời gian nhà trường làm việc, chúng tôi sốt ruột vô cùng. Chúng tôi cũng đưa cháu đi bác sĩ riêng của cháu.”
Kết quả của nỗ lực từ hai phía – nhà trường và phụ huynh – cũng là kết quả tốt đẹp của một buổi họp bàn về phương cách giúp đỡ học sinh. Anh Dzũng nhớ lại: “Ba cô giáo về tâm lý, ngôn ngữ, và các môn khác, rồi cô giáo của M., rồi bà hiệu trưởng đã nói về những gì họ nhận xét và đưa ra kết luận: Cháu M. nhà tôi thiếu khả năng tập trung chú ý. Tôi và vợ tôi cũng cho họ xem kết quả khám nghiệm từ bác sĩ của cháu: hiếu động thái quá.”
Chị Kimmy xúc động: “Chúng tôi cảm động vì nhà trường biết về con tôi không kém gì chúng tôi biết con mình. Thế là cô chuyên viên tâm lý đã đại diện nhà trường nói: Con của ông bà có những biểu hiện của việc thiếu chú ý. Vì vậy, cháu có quyền gia nhập chương trình giáo dục đặc biệt, và được học riêng một số thời gian nhất định trong hình thức các nhóm nhỏ. Thay vì ngồi trong lớp đông đúc, một nhóm 5, 6 học sinh sẽ bớt làm cháu chia trí.”
Chị Kimmy và anh Dzũng vẫn còn giữ những giấy tờ của buổi họp đầu tiên ấy. Anh Dzũng chỉ vào nơi chữ ký nhòe nhoẹt nước mắt: “Đó, chữ ký nhòa hết trơn vì cả hai vợ chồng tôi đều khóc. M. là con trai duy nhất của chúng tôi, và tôi cũng là con trai duy nhất trong gia đình. Ai cũng mong muốn M. giỏi giang, mạnh khỏe. Kết quả khám nghiệm từ bác sĩ và nhà trường khiến chúng tôi nghĩ cháu không giỏi, cũng không bình thường như con người ta.”
Cảm giác của anh Dzũng và chị Kimmy không phải lối phản ứng gây ngạc nhiên. Phụ huynh Việt Nam thường dị ứng với cụm từ “giáo dục đặc biệt.”
Cô Jaycee Nguyễn, một giáo viên tại San Jose, cho biết: “Không chỉ phụ huynh Việt Nam, mà phụ huynh Á châu, và ngay cả da trắng, cũng dị ứng như thế. Có lẽ vì ai cũng muốn con mình bình thường. Khi nhà trường thông báo em học sinh nào đó có thể gia nhập chương trình giáo dục đặc biệt, phụ huynh bực dọc, giận dữ, hoặc xúc động và khóc.”
Theo cô Jaycee Nguyễn, đa số phụ huynh tìm lại bình tĩnh sau đó, và cùng nhà trường tích cực hỗ trợ con em thăng tiến trong học vấn. Bà Marilynne Hoàng, cư dân Milpitas, kể lại: “Lúc người ta báo với tôi là con tôi có rối loạn về trí suy đoán (processing disorder), tôi giận điên lên được. Rõ ràng, con tôi sinh hoạt, nói năng, chuyện trò, chơi đùa như bao đứa trẻ khác. Sao lại bảo rối loạn? Sao lại là thiếu khả năng phán đoán? Đã thế, ông bố ruột của cháu còn mỉa mai tôi vì tôi đã quyết định ly dị. Ông bảo rằng quyết định của tôi khiến cho cháu phát triển không quân bằng. Ba má tôi thì nói tại tôi du lịch bằng máy bay nhiều khi tôi mang thai cháu. Ông bà nội cháu lại đổ lỗi cho tôi không ôm ấp mà để cháu ngủ phòng riêng từ khi cháu mới sinh ra.”
Bà Marilynne nói: “Tôi như chìm vào trong cái giếng sâu có một ngàn lý do đổ tội cho mình. Tôi giận mình, giận từ giáo viên đến cha ruột của cháu, giận cha mẹ chồng và cả cha mẹ mình.”
Bà Marilynne kể về người đã giúp bà thoát khỏi những ngày khó khăn đó: “Trong một lần đau khổ quá, tôi ra ngoài công viên ngồi. Một bà già người Việt ngồi cùng băng ghế đã an ủi và hỏi vì sao tôi khóc. Bà nghe chuyện của tôi, và nói bà có cô con gái cũng là chuyên viên giáo dục đặc biệt. Cô con gái của bà đã là người giải thích, phân tích, và thuyết phục tôi nhìn nhận vấn đề.”
Người chuyên viên giáo dục đặc biệt đó là cô Cheryl Nguyễn. Cô Cheryl nói: “Khi đứa trẻ trong gia đình gặp phải khó khăn trong học tập, chuyện ông bà cha mẹ đổ lỗi cho nhau là chuyện thường xảy ra. Việc cha mẹ ly dị, hay những điều kiện môi trường chung quanh rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ con. Tuy nhiên, còn nhiều lý do khác cũng không kém quan trọng. Trong trường hợp con của chị Marilynne chẳng hạn, cháu có rối loạn mà ông bà cha mẹ của cháu không phải là nguyên nhân.”
Bà Marilynne công nhận: “Khi biết con mình có một rối loạn về khả năng phán đoán, hoặc thiếu khả năng chú ý, hoặc có khó khăn khi sử dụng thính giác… cha mẹ nào cũng hoảng sợ. Chính tôi đã vô cùng lo sợ và tội nghiệp cho con, rồi đâm ra giận mình, giận người. Vì vậy, tôi đã không bình tĩnh để nhìn nhận vấn đề.”
Bà Marilynne kể nhà trường và thầy cô giáo đã mất nhiều công lao để trình bày và yêu cầu bà cho phép nhóm giáo dục đặc biệt được làm việc với con bà: “Tôi nhất định không chịu. Tôi nói: Con tôi không có điên. Mấy người không được phép mang nó ra khỏi lớp để đưa nó làm với những đứa tâm thần.”
Người mẹ giận dữ này đã rời khỏi văn phòng trường: “Tôi bỏ ngang cuộc họp, và dọa mang con đi trường khác. Khi tôi kể lại câu nói trên đây với cô Cheryl, cô ấy phân tích rõ ràng cho tôi hiểu về chương trình giáo dục đặc biệt.”
Cô Cheryl nói: “Tôi giải thích với bà Marilynne, cũng như với nhiều phụ huynh, rằng họ đã hiểu lầm về chương trình này. Chương trình giáo dục đặc biệt không phải là hình thức dậy dỗ rập khuôn được áp dụng cho mọi học sinh. Hơn ai hết, chúng tôi nhận biết mỗi học sinh là một thế giới hoàn toàn khác nhau. Mỗi em có ưu điểm và yếu điểm riêng. Vì vậy, mỗi em có một kế hoạch giáo dục cho riêng mình, và hoàn toàn không giống với bất kỳ em học sinh nào khác.”
Cô Cheryl phỏng đoán: “Có lẽ các phụ huynh Việt Nam mình dị ứng với những từ giáo dục đặc biệt vì nghĩ rằng các em ở trong chương trình này là điên khùng, bất bình thường. Điều đó hoàn toàn không đúng. Nền giáo dục tại Hoa Kỳ không phân biệt học sinh theo kiểu bình thường hay không bình thường. Thực sự, chuyện định bệnh một người nào đó là điên khùng, tâm thần… là chuyên khoa của các bác sĩ y khoa, tâm trí. Chúng tôi là chuyên viên giáo dục. Chúng tôi chỉ quan tâm đến việc tìm ra nguyên nhân khiến một em học sinh học yếu, và định phương cách để giúp em học ở mức tốt nhất mà em có thể.”
Định nghĩa học ở mức tốt nhất có thể mà cô Cheryl sử dụng là cụm từ không rõ đối với bà Minh Trang, một phụ huynh ở thành phố Los Gatos. Bà Minh Trang nói: “Tôi đồng ý cho con tôi tham gia chương trình giáo dục đặc biệt. Qua đó, các thầy cô chuyên môn sẽ dẫn cháu ra khỏi lớp vài tiếng đồng hồ một ngày, và dậy cháu trong nhóm chừng 5, 6 học sinh. Tôi tưởng rằng sau một thời gian thì chương trình học riêng này sẽ đưa cháu từ trình độ yếu lên bằng bạn bè.”
Theo bà Minh Trang, em Myra, con của bà, đã theo chương trình giáo dục đặc biệt từ năm lớp 1, và hiện em vẫn còn nhận sự giúp đỡ của chương trình dù năm nay đã là năm thứ 5. Bà giải thích: “Đến năm thứ ba sau khi cháu tham gia chương trình giáo dục đặc biệt, tôi được nhà trường cho biết là trình độ của cháu vẫn yếu hơn bạn bè, và họ muốn tiếp tục giúp đỡ cháu. Lúc đó tôi mới hiểu ra rằng trí thông minh của con tôi không bằng những em cùng tuổi. Tôi phải nhận rằng nhà trường đã nhẹ nhàng trình bày vấn đề, và tôi không tự ái khi phải hiểu như thế.”
Bà Minh Trang nhận xét: “Là người mang nặng đẻ đau, tôi rất buồn và rất nhậy cảm khi có ai đó chê bai con của tôi. Tuy nhiên, nhà trường của cháu Myra hết sức thông cảm. Họ không bao giờ dùng chữ hay ngầm ý là cháu bất bình thường, đần độn. Trước sau, họ vẫn nói là Myra khác với các bạn. Họ đã giúp tôi hiểu ra là con tôi đúng là khác với mọi người, và cháu cần có những giúp đỡ để gia nhập vào xã hội này dễ dàng hơn.”
Bà Minh Trang đề nghị: “Nếu quý vị nào thấy nhà trường nói đến chương trình giáo dục đặc biệt, tôi nghĩ quý vị cứ bình tĩnh xem họ trình bày những gì. Họ sẽ đưa ra bằng chứng như trình độ học trong lớp, hoặc điểm thi những bài thử nghiệm với các chuyên viên giáo dục đặc biệt. Họ sẽ giải thích lý do, và đề nghị những gì họ muốn giúp đứa bé đó. Họ là thầy cô giáo, dĩ nhiên họ muốn học trò học giỏi hơn, và hoàn toàn không có ý làm hại con em chúng ta.”
Tuy nhiên, lời đề nghị của bà Minh Trang có thể không dễ thực hiện trong một số trường hợp. Anh Tuần Phạm, một cư dân San Jose, cho biết: “Con tôi là đứa bé thông minh vượt bực. Chỉ sáu tuổi, nó đã biết nhiều chi tiết về khoa học kỹ thuật mà chính cô giáo của nó phải ngạc nhiên. Nó nói chuyện và lý luận như một học sinh trung học. Vậy mà nhà trường của nó lại đề nghị đưa nó vào một lớp đặc biệt.
Anh Tuần nhấn mạnh: “Không phải chỉ chương trình giáo dục đặc biệt theo kiểu cháu được dẫn ra dậy riêng một vài tiếng đồng hồ đâu. Họ muốn con tôi vào một lớp chỉ có khoảng 8, 9 học sinh. Tôi vào xem thử lớp đó, và rất bất bình. Phần lớn các học sinh tại đó có thái độ cư xử bất bình thường, dị hợm. Con tôi có điên đâu!”
Theo anh Tuần, cậu con trai thông minh của anh có những khó khăn sau đây: thiếu khả năng chú ý, có thể nổi giận đánh bạn hoặc thầy cô. Anh Tuần kể: “Rất nhiều lần trong trường gọi tôi đến vì cháu cắn bạn, và đánh cô giáo. Tôi biết là thương tích của họ không nhẹ, nhưng tôi thắc mắc: nếu học sinh hư hỗn, nhà trường phải có cách dậy dỗ. Tại sao lại đẩy nó vào lớp của những em tâm thần?”
Chính anh Tuần là người tìm ra câu trả lời cho mình sau 2 tháng đưa con vào học thử nghiệm trong lớp học từng khiến anh bất bình. Anh kể: “Bác sĩ của con tôi nói cháu mắc rối loạn Asperger’s. Nhà trường nói lớp học ít người kia tốt hơn cho cháu. Tôi bấm bụng để con vào học. Hai tuần lễ đầu tiên, con tôi trở nên dữ dằn, quạu quọ hơn. Tôi lo xanh mặt. Sau đó, cháu về nhà kể huyên thuyên: nào là cô giáo dậy một mình cháu tập viết, nào là cháu được đi học lớp khoa học với các anh chị lớp 5…”
Người cha của cậu bé mắc chứng Asperger’s rơi nước mắt: “Đến cuối tháng thứ hai, tôi mang một bó hoa đến trường mới, và một bó hoa đến trường cũ để cám ơn những chuyên viên giáo dục đã kiên nhẫn thuyết phục tôi. Con tôi tiến bộ không thể ngờ được. Thằng bé không còn thái độ tấn công mọi người. Nó biết báo động với cô giáo và phụ giáo những khi nó sắp sửa bực mình. Nó biết lấy bút viết về nỗi bực dọc đó thay vì la hét hay đánh bạn, đánh cô. Điều mà tôi ngạc nhiên nhất là nó vẫn tiếp tục học ở trình độ của nó. Những môn khoa học thì cháu được đưa sang học chung với lớp 5. Còn tập viết tập đọc thì học riêng với cô của cháu.”
Anh Dzũng và chị Kimmy đồng ý: “Con của chúng tôi cũng thế. Dù cháu học yếu gần như tất cả mọi môn, cô giáo vẫn chú ý để dậy cháu vẽ. Cháu cũng rất giỏi về viết chính tả. Cô giáo sử dụng ngay khả năng này để khuyến khích, và còn đề nghị cho cháu tham dự cuộc thi viết chính tả của học khu.”
Cô giáo Cheryl kết luận: “Tôi nghĩ điều phải được thực hiện trước hết, và cũng là điều khó khăn nhất, chính là cha mẹ nhìn nhận yếu điểm của con mình. Từ xưa đến giờ, có rất nhiều rối loạn mà người Việt chúng ta không nhìn nhận, thí dụ không tập trung được lâu, không ghi nhận và nhớ được thông tin khi nghe, hoặc chứng hiếu động thái quá, v.v.. Thực sự, đó là những khuyết điểm mà các em học sinh cần được hỗ trợ để có thể học theo đúng khả năng của mình. Xin đừng ngộ nhận rằng các em điên khùng, bất bình thường. Khi nhà trường và phụ huynh cùng mong ước cho một học sinh nào đó học giỏi nhất ở khả năng của em, chúng ta sẽ nhìn thấy tiến bộ trong học vấn của học sinh ấy.”
San Jose, May 18, 2008