gửi bởi phi » T.Bảy Tháng 11 06, 2010 9:49 pm
Chào T.
Đây là phần trả lời của mình
1) Đầu tiên là việc bé T học dùng câu đúng ngữ cảnh, ví dụ như việc bé T nói "cô cho cho đi tè" nhưng lại không biết chuyển thành "mẹ cho con đi tè" khi nói với mẹ
Trẻ con nói chung, không riêng gì trẻ TK, đôi lúc học câu bằng hình thức thuộc lòng giống như một cô ca sĩ học hát nhép tiếng Anh vậy. Cô ta biết phải phát âm ra các từ đó thì thành bài hát nhưng không nhất thiết hiểu nghĩa của từng chữ. Trẻ TK thì sẽ có khó khăn hơn khi phải học một loạt các từ để nhớ hết 1 câu. Ở các trẻ không TK, lúc đầu chúng chỉ học thuộc lòng, sau đó bắt đầu hiểu ý nghĩa và lần mò học ra ngữ pháp. Trẻ TK thì không được như vậy vì trẻ TK phải bỏ ra một phần lớn năng lực để biết khi nào dùng câu đó (dùng đúng ngữ cảnh).
Câu "cô cho con đi tè" gồm 5 chữ, tương đối là 1 câu khá dài cho bé T. Vì thế nếu bé phải học thuộc lòng 5 chữ, học khi nào dùng cho đúng, thì bé sẽ không hiểu/không biết phải thay "cô" bằng "bác" hay "thày" cho đúng nhân xưng.
Vậy ta phải làm gì? Chúng ta dùng chiến thuật fall back của ABA như mình đã trình chiếu tại hội thảo. Chúng ta lùi lại dạy ở bước thấp hơn. Ví dụ như chỉ dạy bé "cho con tè" thay vì cả câu (hoặc "cho con đi tè", tùy theo khả năng của bé).
Sau đó chúng ta dạy bé về khái niệm nhân xưng. T lấy cái dép ra nói "dép bố", rồi chỉ vào cái dép của cô giáo và nói "dép cô". Nhớ dùng 2 chữ đơn giản thay vì "đây là dép của bố" để bé không tốn năng lực học nhiều chữ. Khi bé biết phân biệt rồi thì T chuyển qua "dép mẹ", "dép T" chứ đừng chuyển từ "dép bố" qua "áo bố" vì mục đích ở đây là dạy nhân xưng.
Chỉ khi nào bé học được 2 vế trên, vế 1 là dùng đúng ngữ cảnh "cho con đi tè", vế 2 là biết phân biệt "dép mẹ" và "dép cô" thì lúc đó bé mới có khả năng đổi câu "cô cho con đi tè" qua "mẹ cho con đi tè".
2) Dạy câu phủ định
T không nhắc tới nên mình xin dặn T việc này . Khi dạy bé "dép bố, dép mẹ" rồi, việc kế tiếp quan trọng là dạy "không phải dép bố" và "không phải dép mẹ". Theo những gì T kể trên thì cô giáo có vẻ không dạy thể phủ định . Nếu trẻ khôn g nắm được khái niệm này qua ngôn ngữ, sẽ rất khó để mình áp dụng hệ thống khen thưởng kỷ luật cho bé sau này .
3) Việc hỏi quả gì đây và bé cứ trả lời quả chuối mặc dù đưa ra quả cam... thì rất khó cho mình. T cho mình biết rõ hơn cách cô dạy ra sao, thưởng cho bé thế nào? Khi bé trả lời sai thì cô dùng hình thức phạt gì? Tất cả những điều đó giúp mình giải thích tại sao bé cứ trả lời quả chuối thay vì quả cam . Đây chưa chắc đã là vấn đề tri thức đâu, mà có thể là "ảnh hưởng phụ" của cách dạy của cô . Giải thích thì dài dòng lắm, nhưng nôm na thì như vầy . Giả sử mỗi lần bé T khóc, T nói "con nín, ngoan thì bố cho kẹo". Thế thì lần sau bé T khóc là vì khóc thật hay khóc để khi nín sẽ được keọ?
Tất cả các khái niệm trên được các nhà tâm lý học và giáo dục học bàn cãi rất nhiều . T đang học tại Anh, nếu rảnh muốn tìm hiểu thêm thì tìm đọc các cuốn sách sau.
Moral stages and moralization: The cognitive development approach, Kohlberg L.
Classroom research: What we know and what we need to know, Good T.
Cognitive domain của Benjamin Bloom
Các bài viết của Skinner (Mỹ) và nhóm Gestalt (Đức)
Cố gắng T nhé, cái khó của phụ huynh là chúng ta không những phải tự học hỏi, mà còn phải trao đổi kiến thức với cô giáo nữa đó T.
Phi
Special Ed.